Điều dễ nhận biết ở loài bồ câu Nicoba Côn Đảo là ở chim đực trưởng thành có một vòng lông dài ngắn khác nhau mọc xung quanh cổ. Bộ lông mầu tối, có ánh thép sáng, lục và mầu đồng tương phản hơi ánh xanh. Đuôi có vài lông trên đuôi dài nhất và lông dưới đuôi trắng. Lông mặt bụng và dưới cánh xanh lục ánh thép có phớt xanh.
Chim cái: Đầu, cổ, ngực hơi xám hơn và ít ánh xanh thẫm. Các lông nhọn ở cổ ngắn hơn ở chim đực. Mắt nâu, mỏ xám nhạt hay đen xám, chân đỏ tím đậm.
Sinh học, sinh thái:
Dẫn liệu về sinh sản còn biết ít. Theo dân địa phương thì mùa sinh sản của bồ câu Niciba vào thời gian xuân hè (tháng 4 – 5), đẻ 1 trứng. Tổ làm đơn giản (giống như tổ cu gáy) đặt trên các cành cây có tán rộng cách mặt đất 5 – 10m. Bồ câu Nicoba thích ăn các loại hạt, quả cây trong rừng. Thường sống đơn độc hoặc đàn, làm tổ tập đoàn trên cùng một cây. Kiếm ăn và làm tổ ở các khu rừng nơi vắng vẻ của các đảo nhỏ. Kiếm ăn ở trên mặt đất, thỉnh thoảng vào buổi trưa bay lên cây nghỉ.
Phân bố:
- Trong nước: Bà Rịa – Vũng Tàu (Côn Đảo).
- Thế giới: Ấn Độ (quần đảo Andaman, Nicoba), Malaixia, Indonesia (Xalomon và Timor), Philippin, Mianmar, Thái Lan.
Giá trị: Là loài đặc sản quý và rất hiếm, có khu vực phân bố hẹp. Có giá trị khoa học, làm cảnh, thương mại.
Tình trạng: Số lượng còn rất ít, nơi sinh sống bị tác động, khu phân bố bị thu hẹp, bị săn bắt bừa bãi. Trước đây tương đối phổ biến ở Vườn quốc gia Côn Đảo, hiện nay rất hiếm, rất ít thông tin, gần đây phát hiện một con mới rời tổ ở Vườn.
Phân hạng DD
Biện pháp bảo vệ:
- Tuy đang có mặt ở Vườn quốc gia Côn Đảo nhưng chưa có điều kiện điều tra nghiên cứu kỹ. Cần nghiêm cấm, kiểm soát chặt chẽ đi đôi với việc giáo dục cho mọi người dân ở địa phương nâng cao ý thức bảo vệ, không săn bắt, không phá tổ lấy trứng và tích cực bảo vệ môi trường sống của chúng. Cần tiếp tục nghiên cứu để có thông tin đầy đủ về loài này. Sách Đỏ Việt Nam (1992, 2000) và Sách đỏ Chim Châu Á (2001), bậc NT (sắp bị đe dọa).
Tài liệu dẫn: Sách đỏ Việt Nam – phần động vật – trang 277.
Bí ẩn loài bồ câu Nicoba Côn Đảo
Khác với loài nhạn biển, lũ bồ câu Nicoba không đi kiếm ăn thành đàn mà chỉ đi đơn lẻ từng con hoặc cặp đôi. Loài chim này không sống sát mép biển và trên các kè đá, chúng kín đáo lùi sâu hơn vào bên trong những tán cây rậm rạp. Loài bồ câu Nicoba chọn nơi làm tổ kỹ lưỡng và kín đáo hơn loài gầm ghì trắng, tổ của chúng được làm ở phía dưới rất nhiều tán lá và cành cây.
Những con sóng vỗ vào sâu hơn trong bờ đá báo hiệu nước triều dâng khi mặt trời đã ngả bóng. Lũ gầm ghì trắng và nhạn biển các loài đã trở về tổ nơi ngọn cây và vách đá. Con chim sâu mẹ cũng tha mồi về tổ cho lũ chim non như thường lệ. Không gian nơi vách đá sát biển chợt ồn ào như một khu chung cư lúc sẩm tối. Con bồ câu Nicoba non trong tổ dường như không hề sốt ruột bởi cái náo động của hàng xóm.
Ở vách đá sát mép nước có những âm thanh rối rít rất đặc biệt phát ra nơi khe đá cao. Phía trên, những con chim yến nháo nhác lượn một vòng bên ngoài rồi bay thẳng vào trong vách hang đá. Vách hang khá hep, chỉ đủ cho hai người chui vào, và ở trên những phiến đá dựng đứng có những cái tổ xinh xắn màu trắng của loài chim yến.
Cứ vài cái đốm trắng chụm lại thành một cụm, loài yến thường làm tổ trên những vách đá dựng đứng trong khe núi sát nước biển. Mỗi cái tổ ấy có kích thước khoảng hơn 10cm2, đủ để chứa được 1 đến 2 quả trứng nhỏ của loài chim yến. Đây là thời gian ấp trứng hàng năm của chúng.
Cứ vào thời điểm tháng 2 đến tháng 4 hàng năm, loài chim yến này lại tập trung ở những vách đá hiểm trở và ít có loài nào tới được để làm tổ và đẻ trứng. Có nhiều địa điểm ở Côn Đảo đáp ứng được điều kiện sinh nở của loài chim quý này. Ngoài Hòn tre nhỏ, hang Việt Minh cũng là nơi sinh sản lý tưởng của loài này. Chỉ mất 15’ đi ca nô, bạn đã có thể tới được hang Việt Minh.
Thời tiết về chiều ở Côn Đảo tháng 7 thường hay có những thay đổi thất thường. Những cơn mưa bất chợt đến cũng đủ làm cho việc di chuyển trên những kè đá trở nên khó khăn và nguy hiểm hơn bao giờ hết. Chặng đường di chuyển qua lại giữa những hòn đảo nhỏ vì thế luôn hết sức cập rập.
Ở vào giai đoạn hai tuần tuổi, những con Nicoba non thường đã có được sức chịu đựng nhất định. Do tổ của chúng được làm trên cao và khá kín đáo nên hầu như không bị ảnh hưởng bởi sự xâm phạm của các loài khác.
Những cơn mưa mang đến độ ẩm cần thiết cho không khí những cũng tạo điều kiện cho lũ côn trùng hoạt động hung hãn hơn. Trời tối hẳn, những con Nicoba non bắt đầu nhúc nhắc ra chiều nôn nóng mong mẹ về. Giai đoạn này, chúng vẫn chưa trang bị được bản năng săn mồi, dù là những con côn trùng nhỏ vo ve xung quanh.
Ánh nắng sớm cũng không gay gắt. Con chim non dường như đã dậy từ lâu, nó vươn mình khoan khoái trước những ánh nắng hiếm hoi rọi vào tổ. Ở lũ chim non này, khi lông bắt đầu phủ trên toàn thân thì những sắc màu đặc trưng cũng dần được hình thành. Cơ chế phát triển của mỗi loài bay lại có những khác biệt nhất định.
Loài Nicoba khi được già 3 tuần tuổi, những bộ phận đã hình thành khá hoàn thiện tuy chưa phát triển hết mức. Chúng đã có thể nhận biết được xung quanh và đặc biệt là khả năng nhận ra đồng loại từ rất xa.
Dường như ngay cùng với lúc ấy, những tín hiệu không giống với các loài khác làm cho con non trở nên rối rít hơn, đó là những đôi cánh chao liệng trên nền ban mai. Con Nicoba mẹ nhanh chóng xác định được tổ của mình và sà xuống. Mặc cho con non mong ngóng, nó chưa vào ngay tổ mà con thăm dò bên ngoài như phát hiện ra điều gì đó khác biệt. Chỉ sau khi không thấy điều gì nguy hiểm, nó mới nhảy lên tổ với con non của mình. Con Nicoba non tỏ ra an tâm dưới sự che chở của con mẹ. Nhưng cũng chỉ được một lúc, cơn đói sau hơn một đêm khiến con non thúc giục mẹ cho ăn. Song cơn mưa hôm trước khiến con chim mẹ không kiếm được nhiều mồi như mong muốn. Và trước sự đòi hỏi của con non, nó quặn mình lên như để trút hết những gì ít ỏi tích lũy được từ hôm trước.
Thức ăn của loài chim hiếm này khá đơn giản, đó chủ yếu là những trái cây rừng, đặc biệt là những hạt rất cứng và một vài động vật không xương sống ở mặt đất. Môi trường kiếm ăn của Nicoba thường tập trung ở sinh cảnh rừng ngập mặn hoặc rừng xanh rụng lá.
Chim non được chim bố mẹ mớm cho thức ăn từ nguồn kiếm được trong ngày. Nhưng cơn mưa hôm trước đã vô tình ngăn cản nó kiếm được lượng thức ăn cần thiết, có thể đó cũng là lý do cho sự vắng mặt của con chim bố. Có lẽ lúc này, con Nicba bố đang đi kiếm thức ăn bù vào thời gian mà cơn mưa hôm trước đã tước đi của nó. Biển có lẽ lúc nào cũng hào phóng và ưu đãi với muôn loài.
Thường thường, chim bố mẹ đi kiếm ăn từ sáng sớm cho đến chiều tối. Khoảng từ 6,7h cho đến 17h trong ngày là thời gian kiếm ăn còn cả đêm chúng dành cho chim non.
Kích thước con chim Nicoba đực thường lớn hơn con mái một cách rõ rệt. Chiếc tổ xinh xắn tỏ rõ sức bền khi phải ôm ấp cả gia đình Nicoba. Khi đã yên tâm bởi sự hiện diện đầy chắc chắn của con đực, con chim cái bắt đầu rời tổ để tiếp tục công việc mà hàng ngày nó vẫn cần mẫn thực hiện. Con chim đực tiếp quản vị trí và trách nhiệm từ con cái một cách hoàn hảo, nó dường như không có chút bỡ ngỡ.
Ở loài Nicoba, tập quán sinh sản và chăm sóc con non khá giống với chim yến. Chim đực và chim cái thay phiên nhau kiếm mồi và bảo vệ con non. Trong suốt quá trình ấp trứng cũng như vậy. Thời gian về đêm là lúc cả đôi cùng bảo vệ cho thế hệ nối tiếp của mình.
Con chim non sau khi nở vài ngày đã có được bộ lông khá mượt. Khi chưa mọc kín khắp thân mình, bộ lông của nó có màu đen tuyền chứ chưa chuyển màu xanh đặc trưng như bố mẹ nó. Màu đen ấy cứ theo thời gian bóng dần lên, khi nó đã đen óng là lúc nó có thể ra ràng và tập làm quen với cuộc sống tự chủ.
Quá trình chuẩn bị để ra ràng đối với chim non thật dài. Nó phải tập di chuyển trên đôi chân trước khi có thể tung mình vào không gian của biển cả. Rồi cũng đến lúc nó thừa hưởng được hết những khả năng ấy, đó là lúc nó đã trưởng thành. Khi ấy, mắt nó bắt đầu có màng trong màu đen, bộ lông ánh lên màu xanh kim loại với màu trắng đặc trưng lộ ra phía đuôi. Chân nó khỏe và lớn để vừa nâng đỡ được trọng lượng cơ thể, lại vừa phục vụ cho mục đích kiếm ăn trên những địa hình khác nhau.
Loài Nicoba sống tập trung ở vùng ven biển Nam Á. Người ta phát hiện ra chúng lần đầu tiên ở quần đảo Nicobar của Ấn Độ nên nó được gọi với cái tên như vậy.
Đặc điểm dễ nhận biết nhất của chúng chính là cấu trúc và màu sắc của bộ lông, cùng với đó hệ thống xương ống ở cánh. Cấu trúc lông ống cũng làm nên những điểm khác biệt chỉ có ở loài này.
Vòng đời của Nicoba cũng khá dài, sau khi nở ra từ trứng khoảng 5-7 tuần là nó có thể sống độc lập và dần trưởng thành.
Sự có mặt của loài chim quý hiếm Nicoba ở Côn Đảo được ghi trong sách đỏ Thế giới này đã góp phần làm phong phú và đa dạng hơn bức tranh sinh cảnh tuyệt vời của thiên nhiên vùng biển đảo này.