Nghĩa trang Hàng Dương và những bí mật chưa kể

Nghĩa trang Hàng Dương Côn Đảo là một di tích căm thù, có giá trị tố cáo chế độ thực dân, đế quốc đồng thời giáo dục truyền thống cho các thế hệ. Do đó Nghĩa Trang Hàng Dương khác hẳn với các nghĩa trang liệt sỹ có trong nước ta, không phô trương khác với thực tế lịch sử mà hài hòa hợp với cảnh trí thiên nhiên, gây ấn tượng tưởng niệm sâu lắng.

Tổng quan về Nghĩa trang Hàng Dương

Nghĩa trang Hàng Dương rộng 190.000m2, gồm 3 khu : khu A, khu B và khu C. Theo số liệu ước định có khoảng: 20.000 tù nhân đã chết ở Côn Đảo. Tuy nhiên không phải tất cả đều nằm ở Hàng Dương. Nghĩa địa tù được lập ở khu vực Chuồng Bò, sau dời lên Hàng Keo. Từ năm 1944, chế độ khủng bố trắng sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã giết hại hàng ngàn tù nhân.

Nghĩa trang Hàng Dương được Bộ Lao động Thương binh và Xã hội giao cho UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu làm chủ đầu tư và giao cho Viện Kỹ thuật Công binh khởi công xây dựng và tôn tạo vào ngày 19 tháng 12 năm 1992. Sau đó Tổng công ty Xây dựng Trường Sơn tiếp tục thi công trên diện tích khoảng 20 ha, và được chia làm 4 khu:

  • Khu A: Gồm 688 ngôi mộ (có 7 mộ tập thể) trong đó 91 mộ có tên và 597 mộ khuyết danh. Đa số các phần mộ từ năm 1945 trở về trước. Nơi đây có mộ của liệt sĩ cách mạng Lê Hồng Phong và nhà yêu nước Nguyễn An Ninh.
  • Khu B: Gồm 695 ngôi mộ (có 17 mộ tập thể) trong đó 276 mộ có tên và 419 mộ khuyết danh. Đa số các phần mộ từ năm 1945 đến 1960. Nơi đây có mộ của nữ anh hùng Võ Thị Sáu và anh hùng Cao Văn Ngọc.
  • Khu C: Gồm 373 ngôi mộ (có 1 mộ tập thể) trong đó 332 mộ có tên và 41 mộ khuyết danh. Đa số các phần mộ từ năm 1960 đến 1975. Nơi đây có mộ của anh hùng Lê Văn Việt.
  • Khu D: Gồm 157 ngôi mộ, trong đó 14 mộ có tên và 144 mộ khuyết danh. Đặc biệt mộ khu D được quy tập các mộ từ Hòn Cau và Hàng Kẹo về.
Di tích Nghĩa trang Hàng Dương. Nguồn: bariavungtautourism.com.vn

Nghĩa trang Hàng Dương được bảo tồn như một di tích lịch sử đặc biệt. Nghĩa trang hàng Dương với hàng ngàn nấm mộ có tên và không tên là bằng chứng hùng hồn về tội ác của đế quốc, thực dân đối với dân tộc ta. Đó là nơi yên nghỉ của hàng ngàn người con ưu tú của dân tộc ta, đã đối mặt với kẻ thù giữa lao tù, xiềng xích, trong cuộc đấu trang vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.

“Núi Côn Lôn được pha bằng máu

Đất Côn Lôn năm sáu lớp xương người

Mỗi bước chân che lấp một cuộc đời

Mỗi tảng đá là một trời đau khổ”

                         Hay:

“Nghĩa địa Hàng Dương vùi thây bao số phận

Hết lớp này lớp khác dập lên trên

Mặt phẳng lì không mô đất nhô lên

Không bia mộ không tên và không tuổi…”

Những vần thơ trên đã nói lên cách chôn tù của thực dân và đế quốc ở Côn Đảo. Nhất là trong thời thực dân Pháp, mỗi khi có một người tù chết cai ngục cho an táng bằng cách dùng hai chiếc bao bàng, một chiếc trùm từ trên đầu xuống, một chiếc trùm từ dưới chân lên rồi buộc lại bằng vài nuộc dây, sau đó đưa ra nghĩa địa đào một cái hố sơ xài để vùi xuống, bên trên cắm một cọc gỗ có đính một mảnh nhôm (2 x 3 cm), trên mảnh nhôm ấy chỉ ghi vắn tắt số tù và ngày quá cố của người tù. Mấy hôm sau, những đợt gió mạnh hoặc Trâu – Bò dẫm bừa lên cọc gỗ ngã … mất hết dấu vết.

Chưa kể có những trường hợp tù nhân đi làm khổ sai bị tai nạn hoặc kiệt sức chết, bọn cai ngục cho vùi chôn tại chỗ. Nhiều chuyến vượt biển của tù nhân bị sóng gió, thuyền – bè chìm đắm giữa biển khơi. Có thể nói rải rác khắp Côn Đảo đều có xác tù.

Trãi qua 113 năm ngục tù Côn Đảo, có khoảng hai vạn người đã yên nghỉ, nhưng thực tế dấu vết còn lại đến ngày hôm nay là 1.921 phần mộ, trong đó chỉ tìm được 713 phần mộ có danh tánh. Vì trong quá trình bị địch bắt tù đày có nhiều người tù chính trị giữ vững khí tiết và bí mật cho cơ sở nên đã khai tên tuổi, quê quán giả…

Dù cho mộ chí ở đây có tên hay không tên, được tôn tạo hay còn bị vùi lấp thì mỗi nắm đất nơi đây đều là một dấu tích của bao sự kiện đấu tranh cách mạng đối với mỗi liệt sỹ, mỗi con người, mỗi thời kỳ đấu tranh của nhà tù Côn Đảo.

Di tích Nghĩa trang Hàng Dương Côn Đảo đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.

Những điêu khắc nổi bật tại Nghĩa trang Hàng Dương

Sân hành lễ nằm ở trung tâm nghĩa trang với một tượng đài mang một hình tượng Trao Áo. Tượng đài cao 9m, nặng 25 tấn được khởi dựng ngày 16/7/1980. Dưới chân bức tượng có ghi hàng chữ “Vĩnh biệt các đồng chí”. Tượng đài được tái tạo từ câu chuyện “ Chết còn cởi áo cho nhau”. Người trao áo là ông Vũ Văn Hiếu, nguyên là bí thư đầu tiên của đặc khu mỏ Hòn Gai (tháng 10/1930). Người nhận áo nguyên là cố Tổng Bí thư Lê Duẩn.

Bức tượng Trao Áo tại Nghĩa trang Hàng Dương

Câu chuyện bừng sáng tinh thần cách mạng vô sản, tinh thần hiến dâng cách mạng đến hơi thở cuối cùng. Đó là bài ca về sự hy sinh của người cộng sản, tất cả cho tổ quốc, tất cả cho cách mạng.

Chiều xuống, tôi đến Nghĩa trang Hàng Dương, giờ đã thành một quần thể kiến trúc điêu khắc nổi bật. Bước vào Khu tưởng niệm, bắt gặp đầu tiên tác phẩm của nhà điêu khắc Đào Châu Hải, tác phẩm mang tên “Bất khuất” có chiều dài 22 m, cao 3,2 m (chưa kể bệ).

Bất khuất – tác phẩm của nhà điêu khắc Đào Châu Hải (Mặt trước)

Là một dãy khối nằm ngang như một tấm bình phong phía mặt quần thể, hình tượng như một dãy núi, một bức tường nhà lao, được xếp chồng từng khối, những chi tiết điêu khắc khoét lõm sâu vào thể hiện những nhân vật bị giam cầm xiềng xích đang giúp đỡ, nương tựa nhau như đi xuyên trong những khối tường, như sự kết nối huyền thoại của tinh thần yêu nước, đấu tranh bất khuất chống chủ nghĩa thực dân. Những lỗ thủng là điểm thú vị của tác phẩm, nó vừa đạt lý do khi nằm chính diện tiền sảnh quần thể lại vừa cho cảm giác trong ngoài của các ô cửa xà lim. Nhịp đặc, rỗng, lõm, phẳng… đã tạo toàn cho khối điêu khắc một câu chuyện dày dặn, vừa cho xúc cảm câm lặng lại vừa thấy cái cuộn dâng sức mạnh tiềm ẩn, ý chí của tinh thần quật cường, ý chí tư tưởng giải phóng dân tộc.

Hy vọng - tác phẩm của Nhà điêu khắc Phan Gia Hương
Hy vọng – tác phẩm của Nhà điêu khắc Phan Gia Hương

Chính diện, lùi xuống bên trái là tác phẩm của nhà điêu khắc Phan Gia Hương, mang tên “Hy vọng” cao 5m, tạc một khối nhân vật nữ đứng hiên ngang trong gió biển, dang tay thả chim tự do, hình ảnh đó là biểu tượng về tinh thần lạc quan, yêu đời đầy hy vọng, như hóa thân chính từ nữ anh hùng Võ Thị Sáu – một huyền sử sáng chói tinh thần cách mạng, nhân văn.

Tại sao lại có tên là Nghĩa trang Hàng Dương

Trong tất cả hồ sơ thiết kế, các tài liệu pháp lý trước đây đều ghi tên công trình là “NGHĨA TRANG LIỆT SĨ HÀNG DƯƠNG”. Chúng ta hãy nghe lại một câu chuyện kể của ông Vũ Trình Tường người được trực tiếp giao thi công Nghĩa trang Hàng Dương.

“Cổng chính Nghĩa trang có kiến trúc là một khung hình vuông chiều cao bằng chiều rộng, hai cột đứng và xà ngang đều có tiết diện hình tam giác được ốp bằng đá Granit màu đen. Tên Nghĩa trang được gắn trên xà ngang của cổng chính làm bằng đồng. Khi chúng tôi công phu gắn chữ “Nghĩa trang Liệt sĩ Hàng Dương” lên cổng Nghĩa trang. Khoảng 1 tuần sau, khi một số ảnh chụp của khách du lịch được đăng tải trên báo chí.

Dư luận trong cả nước đều nhất loạt phản ứng gay gắt. Theo ý kiến dư luận: “Nghĩa trang Hàng Dương” có lịch sử cả trăm năm, tù nhân ở Côn Đảo đủ các thành phần : các đối tượng trộm cướp, đĩ điếm, tù chính trị…khi bị hành quyết hoặc ốm yếu chết đều lấp xác ở Nghĩa trang này. Nếu gắn tên “ Nghĩa trang Liệt sĩ Hàng Dương” thì các đối tượng hinh sự, trộm cướp có mộ ở đây đều trở thành Liệt sĩ ? Mà việc tách bạch mộ nào là Liệt sĩ, mộ nào không phải liệt sĩ là không thể làm được.

Sau các cuộc hội thảo, các nhà chức trách thống nhất là bỏ hai chữ “Liệt sĩ” trong tên nghĩa trang đi, chỉ còn là “NGHIÃ TRANG HÀNG DƯƠNG”. Đó là một quyết định hợp lý.”

Năm ngôi mộ Anh hùng đặc biệt trong Nghĩa trang Hàng dương

Trong Nghĩa trang chỉ có năm ngôi mộ đặc biệt, được thiết kế tôn tạo riêng:

Nhà cách mạng Nguyễn An Ninh

Mộ Nguyễn An Ninh (1900-1943) là nhà cách mạng ở đầu thế kỷ 20 – một Chí sĩ yêu nước bị Pháp bắt tù và bị chết ở đây. Mộ nằm ở Khu A ( lớp mộ trước năm 1945). Trước khi nâng cấp, ngôi mộ đã được xây khá đẹp bằng gạch vữa. Khi tôn tạo giữ nguyên hình dáng bia mộ cũ với dòng chữ ” Liệt sĩ chi mộ), tôn tạo tường rào, sân mộ, cảnh quan xung quanh.

Mộ nhà Cách mạng Nguyễn An Ninh tại nghĩa trang Hàng Dương
Mộ nhà Cách mạng Nguyễn An Ninh tại nghĩa trang Hàng Dương

Ủy viên Quốc tế Cộng sản Lê Hồng Phong

Mộ Ủy viên Quốc tế Cộng sản Lê Hồng Phong nằm xa nhất thuộc khu A. Trước khi nâng cấp mộ đã được xây bằng gạch có bia bằng xi măng. Khi tôn tạo, xây dựng mới hoàn toàn từ thân mộ ốp bằng đá Granít, bia mộ, sân, hàng rào.

Khu mộ đồng chí Lê Hồng Phong nằm tại khu A Nghĩa trang Hàng Dương.

Anh hùng Cao Văn Ngọc

Mộ Anh hùng Cao Văn Ngọc (1897-1962; biệt danh “ ông già chuồng cọp”) nằm ở khu B (đa số mộ từ 1945-1960) được tôn tạo xây dựng bổ sung năm 1999 sau khi đươc truy tặng Anh hùng ngày 16/12/1998.

Phần mộ Anh hùng Cao Văn Ngọc

Anh hùng Lê Văn Việt

Mộ Anh hùng Lê Văn Việt (1937-1966). Lê Văn Việt là một biệt động Sài gòn bị bắt khi tấn công Đại sứ quán Mỹ 1965, đày ra Côn Đảo và hy sinh tại đây. Lê Văn Việt được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT ngày 20/12/1994). Trước khi tôn tạo đã được xây đơn sơ và có bia mộ mang tên Nguyễn Văn Hai. Khi Lê Văn Việt được truy tặng Danh hiệu AH, UBND thành phố Hồ Chí Minh đề nghị được tôn tạo, nhưng Ban QL Công trình không đồng ý mà chỉ xây dựng theo mẫu của Thiết kế đã được duyệt.

Mộ Anh Hùng Lê Văn Việt

Nữ anh hùng Võ Thị Sáu

Chị Võ Thị Sáu (1933-1952 tham gia vào các hoạt động bí mật ở địa phương từ năm 12 tuổi. Năm 1950, Võ Thị Sáu bị địch bắt.. Tòa án Binh của Pháp kết án tử hình chị vào tháng 4 năm 1951, dù chị lúc này mới 16 tuổi. Chị bị lén lút xử bắn vào 7 giờ sáng ngày 13 thắng 01 năm 1952, tại Côn Đảo. Bọn cai ngục lấp xác chị trong bãi cát ở Hàng Dương.

Truyền thuyết cũ:

Do “cảm phục” Võ Thị Sáu, ngay tối hôm 23/1, kíp tù làm thợ hồ ở khám 2, banh I đã tìm cách đúc một tấm bia bằng ximăng đề rõ họ tên, quê quán, ngày chết đặt ở đầu mộ. Sáng hôm sau hay tin, sĩ quan chỉ huy ngục Côn Đảo là Jarty đích thân dẫn lính đến đập nát tấm bia, san bằng ngôi mộ. Nhưng những người còn đi làm khổ sai vẫn lén giấu từng nhúm xi măng để dựng lại bia, đắp lại mộ Võ Thị Sáu.

Năm 1960, Tăng Tư ra Côn Đảo nhận chức Phó tỉnh trưởng Côn Đảo, vợ ông này đang mắc bệnh nan y. Nghe chuyện về Võ Thị Sáu, ông này âm thầm lập bàn thờ Võ Thị Sáu trong nhà. Năm 1964, Tăng Tư lên chức Tỉnh trưởng, bà vợ khỏi bệnh. Vợ chồng Tăng Tư liền làm lễ tạ và gieo quẻ xin phép được trùng tu ngôi mộ của Sáu. Rồi vợ Tăng Tư về ngay Chợ Lớn đặt tấm bia có khắc rõ là: “Liệt nữ Võ Thị Sáu sinh năm 1933 tại Bà Rịa, mất ngày 23/1/1952”và tổ chức buổi lễ long trọng đặt bia trên mộ Chị. Bia cũ do những người thợ hồ đúc vẫn để nguyên.

Truyền thuyết lan truyền rằng: “Cô Sáu rất linh thiêng, không ai có thể đập phá được mộ của cô”, và những ai trực tiếp chỉ huy phá mộ thì vài hôm sau đã chết “bất đắc kỳ tử”, hoặc khùng khùng điên điên. Cũng từ đây, người trên đảo khi nhắc tới điều gì đều không thề: “Có trời đất quỷ thần”, mà thề: “Có cô Sáu chứng giám”.

Truyền thuyết tương tự còn nhiều với những tên tuổi nhân vật cụ thể.

Mộ Nữ anh hùng Liệt sĩ Võ Thị Sáu tại Côn Đảo

Và câu chuyện của chúng tôi.

Khi tôn tạo mộ Chị sẽ phải đập bỏ phần vỏ mộ được Chúa đảo Tăng Tư xây dựng từ năm 1964 để xây vỏ mộ mới. Chúng tôi cũng sẽ phải “động” đến mộ Chị. Liệu những truyền thuyết kia có ứng nghiệm với chúng tôi không ?

Trước khi động thổ, chúng tôi cũng thắp hương báo cáo với Chị : “Xin phép Chị cho chúng tôi xây lại Chị một ngôi nhà mới khang trang hơn. Mong Chị phù hộ cho chúng tôi”

Nhóm thợ xây dựng cũng chọn người thợ cao niên nhất đùng búa đập mộ cũ. Tất cả chúng tôi nín thở chờ đợi nhưng không thấy việc gì xảy ra. Việc xây dựng diễn ra thuận lợi. Mặt mộ được ốp bằng một tấm đá Granit đỏ, phía sau Mộ có một chiếc gương đá hình tròn trên cho bức phù điêu chân dung chị. Tấm bia bằng đá Granit được khắc chỉn chu chôn ở đầu mộ. Những viên đá xây tường, lát nền được thuê đục từ Bà Rịa chở ra. Hai bia cũ không phá đi mà chỉ dựng cạnh mộ mới. Khách thăm quan thấy mộ Chị hiện có ba tấm bia.

Chúng tôi cử một người trách nhiệm nhất, mỗi buổi sáng lại thắp hương trên mộ Chị. Tất cả những thuyền bè qua đây, khách qua thăm đảo đều đến thắp hương với hoa quả bánh kẹo. Gần như ngày nào cũng được hưởng lộc của Chị: hoa quả, bánh trái…Chị đã không trừng phạt chúng tôi, mà còn ban lộc.

Chính những người xây đề xuất trồng một cây Lêkima lấy giống từ quê Đất Đỏ vào vị trí cây dương đã chết khô, không trồng cây dương mới nữa. Kiến nghị đưa thực thi.

Những ngôi mộ tập thể tại Nghĩa trang

Thông thường, các ngôi mộ trong nghĩa trang khi tôn tạo đều sắp xếp theo hàng thẳng ngang – dọc. Nhưng ở Hàng Dương ý đồ thiết kế quy hoạch không giống ở đâu: Các ngôi mộ cũ nằm lộn xộn ở đâu xây lại đúng vị trí và theo hướng cũ. Những bộ hài cốt mới phát hiện cũng theo nguyên tắc đó. Thực tế số hài cốt phát hiện trong quá trình xây dựng còn nhiều hơn cả số mộ có sẵn. Thậm chí sau một ngày gió chướng, cát bay đi lộ ra hàng chục bộ hài cốt. Các hài cốt tìm thấy không thể phân chia chính xác từng bộ thì xây dựng chung thành mộ đôi, mộ ba, mộ năm… (gọi là các ngôi mộ tập thể).

Hình dạng các ngôi mộ cũng không cần xây vuông vức mà chỉ xây thô bằng đá, gần như một đống đá đổ trên mộ. Trên đầu mỗi mộ có một “trụ bia” bằng bê tông, đầu trụ bia có gắn một khối đá Granít màu đỏ, trên đó khắc tên (nếu xác định được tên) và một ngôi sao. Ban đầu các ngôi sao đúc bằng đồng, nhưng chỉ một thời gian ngắn bị gió mặn làm cho rỉ xanh, phải gỡ bỏ. Qua nhiều lần thay đổi chất liệu, cuối cùng các ngôi sao bằng sứ màu vàng được sử dụng như hiện nay.

Với ý đồ thiết kế quy hoạch như vậy, các khu mộ trông rất lộn xộn, xung quanh mộ vẫn là cát như khi chưa nâng cấp.

Trong Nghĩa trang tất cả có 25 ngôi mộ tập thể. Phần lớn các mộ đều xác định được danh tính.

Riêng các mộ chuyển từ đảo Hòn Cau, khu Hàng Keo về là được quy hoạch thành lô, thành hàng phía sau Bia tưởng niệm Trung tâm.

Thời gian viếng nghĩa trang Hàng Dương

Để đảm bảo tính tôn nghiêm, an ninh trật tự, bảo vệ môi trường trong lễ viếng, dâng hương tưởng niệm tại di tích nghĩa trang Hàng Dương, Ban Quản lý Di tích Côn Đảo đã có thông báo số 103/DTCĐ-VP thông báo thời gian thăm viếng, dâng hương tưởng niệm tại di tích nghĩa trang Hàng Dương, cụ thể như sau:

Tại nghĩa trang Hàng Dương:

  • Ban ngày: Từ 7 giờ 30 phút đến 17 giờ 00 phút
  • Ban đềm: Từ 18 giờ 00 phút đến 24 giờ 00 phút

Xem thêm: Bức tượng “Trao áo” trong nghĩa trang Hàng Dương

4.6/5 - (11 bình chọn)
Bài trước
Điều chỉnh lịch chạy tàu Trưng Nhị tuyến Vũng Tàu – Côn Đảo
Bài sau
Tù chính trị Côn Đảo đấu tranh đòi nhà cầm quyền thực dân trả lại tự do
Bạn phải đăng nhập để gửi phản hồi.