DI TÍCH TRẠI PHÚ HẢI

Banh I còn có các tên: Lao I, trại Cộng Hòa, trại 2, tên cuối cùng (tháng 11/1974) được gọi là trại Phú Hải, do Thực dân Pháp xây dựng từ những năm cuối thế kỷ 19.

Diện tích: 12.015m2. Gồm 10 phòng giam tập thể; 1 phòng giam tù đặc biệt; 20 xà lim (hầm đá), Khu lao động khổ sai đập đá, Hầm xay lúa, vừa là nơi làm khổ sai (xay lúa) vừa là nơi đày ải nghiệt ngã đối với tù nhân, thời Mỹ -ngụy chuyển thành (bệnh xá). Ngòai ra còn có các công trình phụ như: Câu lạc bộ; phòng hớt tóc; nhà bếp; nhà ăn; giảng đường, nhà nguyện, phòng trật tự; nhà kho; văn phòng giám thị và sân vườn.

Có thể nói, các lớp tù nhân từ thuở Cần Vương, Văn Thân chống Pháp như: chí sỹ Ngô Đức Kế, Đặng Nguyên Cẩn, Lã Xuân Oai, Phan Chu Trinh,… đến nhiều chiến sỹ cách mạng Việt Nam như: đồng chí Tôn Đức Thắng, Phạm Hùng, Phạm Văn Đồng,…đến thế hệ sinh viên học sinh xuống đường chống Mỹ – Thiệu bị bắt đều trải qua những năm tháng lao. Đây là nơi Chi bộ cộng sản đầu tiên trong nhà tù Côn Đảo được ra đời cuối năm 1932, sau phát triển thành Đảo ủy Côn Đảo. Banh I cũng là nơi những người cộng sản mở các học văn hóa, lý luận, chính trị. Đặc biệt là khóa học Chủ nghĩa Mác- LêNin theo chương trình huấn luyện của Đại học Phương Đông do giáo sư Trần Văn Giàu phụ trách. Tại đây, một số tờ báo “Tiến lên”, “Ý kiến chung” được chuyển từ Banh II về năm 1935.

Khu đập đá: Chí sỹ yêu nước Phan Chu Trinh đã từng khổ sai ở đây và đã sáng tác bài thơ “Đập đá Côn Lôn” (được đưa vào văn học Việt Nam).

Năm 1957, Mỹ ngụy đã đưa 41 phụ nữ chống ly khai, tố cộng từ các nhà lao ở đất liền ra Côn Đảo. Đây là lớp nữ tù chính trị đầu tiên thời chống Mỹ ra nhà tù Côn Đảo.

Banh I là điển hình của chế độ khổ sai. Hầu như mỗi mảnh đất Côn Đảo đều khắc sâu nỗi cực nhọc và thấm máu của người tù. Trong sự đày đọa khốn cùng, những người cộng sản, những người yêu nước phải quyết định vận mệnh, chịu chết mỏi mòn hoặc là đấu tranh để sống trở về tiếp tục họat động cách mạng. Người tù phải chống lại cả một bộ máy từ chúa đảo đến nhiều gác ngục và tay sai…Điều đó, đòi hỏi người tù cộng sản phải được tổ chức thành đội ngũ chặt chẽ, hình thức đấu tranh thích hợp. Nơi đây còn là hiện thân của: “địa ngục trần gian” Côn Đảo.

Thời Mỹ – Ngụy, địch dùng mọi biện pháp từ dụ dỗ, đối xử tử tế đến những thủ đoạn để ép buộc tù chính trị ly khai Đảng Cộng sản…Năm 1957, đây là nơi khởi đầu cuộc đấu tranh chống ly khai Đảng cộng sản của tù chính trị câu lưu, ngọn cờ đầu của phong trào đấu tranh bảo vệ khí tiết của tù chính trị Côn Đảo.

Banh I đã trải qua 113 năm với bề dày lịch sử ngang tuổi nhà tù còn lưu lại nhiều dấu ấn anh hùng trong cuộc đấu tranh lâu dài và bất khuất của những người yêu nước cách mạng Việt Nam tại ngục tù Côn Đảo.

Di tích trại Phú Hải đã được, Bộ Văn Hóa – Thông Tin đã ra quyết định số 54-VHQĐ Đặc cách công nhận Khu di tích đặc biệt quan trọng của Quốc gia ngày 29/4/1979. Ngày 10/5/2012 Thủ Tướng chính phủ ra quyết định 548/ QĐTTg công nhận là Di tích Đặc biệt Quốc gia.

Những cây bàng trong trại Phú Hải - Côn Đảo
Những cây bàng trong trại Phú Hải – Côn Đảo

Trại Phú Hải, nơi trui rèn ý chí Cách mạng

Trại Phú Hải là một trong những nhà tù thuộc hệ thống biệt giam do Pháp lập nên. Từ thời Pháp đến Mỹ – Ngụy, nơi đây từng giam cầm nhiều cán bộ lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Do vậy, trại Phú Hải được xem là cái nôi trui rèn, trưởng thành về lí luận chính trị, văn hóa cho nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta.

TRẠI TÙ CỔ NHẤT

Trại Phú Hải nằm ở trung tâm thị trấn Côn Đảo, trên đường Lê Văn Việt, cách bờ biển 50m. Đây là trại giam cổ nhất, được Pháp lập từ năm 1862 và xây dựng kiên cố từ năm 1889 đến năm 1896 thì hoàn chỉnh. Thời Pháp trại có tên là Bange 1. Sau đó được đổi thành Lao 2, trại 2 và trại Phú Hải sau Hiệp định Paris năm 1973. Trại rộng hơn 12.000m² với 10 phòng giam tập thể, trong đó có 1 phòng tử hình, 20 hầm đá biệt giam, 2 hầm xay lúa đồng thời là phòng trừng giới và 1 khu đập đá. Trong khuôn viên trại có đầy đủ các công trình phục vụ đời sống tinh thần cho tù nhân như: câu lạc bộ, nhà bếp, nhà ăn, nhà hớt tóc, giếng nước, nhà kho, văn phòng, giảng đường, bệnh xá, nhà thờ. Tuy nhiên, tất cả đều được dựng lên để đối phó với các đoàn giám sát về nhân quyền của quốc tế và đánh lừa dư luận.

Trại Phú Hải giam giữ chủ yếu tù chính trị. Thời kháng chiến chống Pháp, dãy khám bên trái (6 – 7 – 8 – 9 – 10) được sử dụng làm khu biệt lập từ tháng 3/1951 để giam giữ các “phần tử nguy hiểm”. Khu vực này trở thành cơ quan lãnh đạo của liên đoàn tù nhân và đảo ủy từ năm 1951 đến năm 1952. Theo quy chế, tù chính trị không phải lao động khổ sai. Bên cạnh đó, với ưu thế nằm kề trại Phú Thọ, cũng là nơi giam giữ tù chính trị, các chiến sĩ cộng sản đã liên hệ và phối hợp mật thiết trong sinh hoạt và đấu tranh. Nhờ đó, những người cộng sản đã sớm tổ chức việc học tập lý luận và văn hóa một cách bài bản, cho các đối tượng có trình độ khác nhau, từ “Cộng Sản sơ giản” đến sơ cấp, trung cấp và cao cấp về lý luận Mác – Lênin. Nhiều đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta đã trưởng thành về lý luận tại các lớp học ở đây. Tù chính trị bị giam cầm tại đây đã tổ chức nhiều cuộc đấu tranh từ thấp đến cao, từ chống ký kiến nghị phản động, đến chống chào cờ và chống toàn bộ nội quy nhà tù.

DẤU ẤN NHỮNG NGƯỜI TÙ LỮNG LẪY

Qua các giai đoạn, nhiều sĩ phu yêu nước như: Huỳnh Thúc Kháng, Phan Chu Trinh… cho đến những nhà cách mạng nổi tiếng như: Chủ tịch Tôn Đức Thắng, Tổng Bí thư Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Hùng, Nguyễn An Ninh… từng bị giam giữ nơi đây. Đến thăm Trại Phú Hải hôm nay, khí phách quật cường của các chí sĩ yêu nước cách mạng vẫn còn mãi vang vọng.

Khu đập đá khổ sai, nơi chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh cảm tác nên bài “Đập đá Côn Lôn”: Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn/Lừng lẫy làm cho lở núi non…/Những kẻ vá trời khi lỡ bước/Gian nan chi kể sự con con.

Nếu khu đập đá khổ sai in khí phách hiên ngang giữa gông cùm lao tù thì hầm xay lúa rạng danh tên tuổi người chiến sĩ cách mạng kiên trung – Tôn Đức Thắng. Để đày đọa người tù, thực dân Pháp bắt lao động khổ sai trong hầm xay lúa nhưng hầm được xây kín. Đa phần tù nhân lao động trong hầm đều chết vì các bệnh liên quan đến đường hô hấp hoặc bị đánh đập do không hoàn thành phần việc. Biết đồng chí Tôn Đức Thắng là một thợ sửa máy lành nghề, chúng đưa đến làm việc tại Sở Lưới chuyên sửa canô. Năm 1945, chiếc canô do bác Tôn sửa mang tên Giải Phóng được chính Bác cầm lái đưa một số đồng chí trong Ban lãnh đạo cách mạng trở về đất liền.

Hay câu chuyện vượt ngục ngay tại phòng giam số 3 cũng để lại tiếng vang lớn, đánh dấu cuộc vượt ngục đầu tiên trong lịch sử nhà tù Côn Đảo. Phòng giam số 3 là phòng giam tù tử hình được canh gác nghiêm ngặt. Để thực hiện vượt ngục, đồng chí Lê Văn Việt, Trung đội trưởng 5F100 biệt động Sài Gòn – Gia Định cùng 2 bạn tử tù là đồng chí Lê Hồng Tư và Phạm Văn Dẫu gồng gánh nhau lên trổ mái nhà, quan sát hành động của cai ngục. Biết mỗi ngày có từ 5 đến 10 phút không có người canh gác do cai ngục đổi ca, các đồng chí đã tranh thủ chớp lấy thời cơ này để vượt ngục vào đêm 12/10/1966. Vượt ngục thành công, các đồng chí tìm nơi ẩn náu chờ lúc thuận tiện để về đất liền tiếp tục hoạt động cách mạng. Tuy nhiên, trong quá trình ẩn nấp, 3 đồng chí lần lượt bị địch phát hiện bắt lại đánh đập, tra tấn dã man rồi hi sinh. Sau cuộc vượt ngục này, bọn cai tù phải cho giăng dây thép gai tất cả phòng giam tại Trại Phú Hải.

Xem thêm: DI TÍCH TRẠI PHÚ TƯỜNG

5/5 - (1 bình chọn)
Bài trước
DI TÍCH TRẠI PHÚ SƠN
Bài sau
DI TÍCH TRẠI PHÚ THỌ

1 Bình luận. Leave new

Bạn phải đăng nhập để gửi bình luận.